Thị trường Chứng khoán

Thị trường chứng khoán Châu Á tăng điểm khi Trung Quốc mở cửa trở lại

Ngô Minh Ngọc   |  06/01/2023

Hầu hết các thị trường chứng khoán châu Á đều tăng vào thứ Sáu khi các thị trường đặt cược vào sự thúc đẩy kinh tế từ việc Trung Quốc mở cửa trở lại biên giới trong tuần này, mặc dù mức tăng bị hạn chế do sự thận trọng về việc công bố dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp của Hoa Kỳ sau đó trong ngày. Các chỉ số Shanghai Shenzhen CSI 300 và Shanghai Composite của Trung Quốc lần lượt tăng khoảng 0,4% và 0,2% khi nước này chuẩn bị mở cửa biên giới sau ba năm phong tỏa do COVID-19. Hai chỉ số này cũng tăng hơn 2% trong tuần. Chỉ số Hang Seng của Hồng Kông đã giảm 0,4%, nhưng là chỉ số hoạt động tốt nhất ở châu Á trong tuần này với mức tăng hơn 6%, sau khi Trung Quốc cho biết họ sẽ mở lại biên giới với trung tâm tài chính châu Á bắt đầu từ ngày 8 tháng 1. Mặc dù việc mở cửa trở lại ở Trung Quốc dự kiến sẽ thúc đẩy sự phục hồi kinh tế, nhưng quốc gia này vẫn đang phải vật lộn với sự gia tăng đột biến các ca nhiễm COVID-19, điều mà các nhà phân tích cho rằng có thể trì hoãn việc mở cửa trở lại trên diện rộng hơn và vẫn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh. Nhưng khái niệm này hầu như không ngăn cản được các nhà đầu tư đổ xô vào chứng khoán Trung Quốc, vốn đã ghi nhận mức tăng vượt bậc vào cuối năm 2022 trong bối cảnh nhà đầu tư tìm các tài sản giảm giá. Các thị trường chứng khoán tiếp xúc nhiều với Trung Quốc cũng tăng điểm vào thứ Sáu. Chỉ số Taiwan Weighted tăng 0,7%, trong khi chỉ số ASX 200 index của Australia tăng 0,7%. KOSPI của Hàn Quốc đã tăng 0,7%, với Samsung Electronics (KS:005930), công ty lớn nhất của quốc gia, tăng hơn 1% ngay cả sau khi công ty này báo hiệu rằng lợi nhuận quý IV giảm khoảng 69%. Công ty, cùng với hầu hết các nhà sản xuất chip lớn khác, đang phải vật lộn để đối phó với sự suy thoái nghiêm trọng trong ngành công nghiệp điện tử khi tăng trưởng kinh tế suy yếu làm cạn kiệt nhu cầu trên toàn cầu. Các thị trường châu Á rộng lớn hơn biến động khi sự chú ý chuyển sang dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp sắp tới của Hoa Kỳ, dữ liệu này dự kiến sẽ ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của quốc gia này. Mặc dù dữ liệu dự kiến cho thấy thị trường việc làm trong tháng 12 hạ nhiệt nhẹ so với tháng trước, nhưng con số này đã gây bất ngờ khi tăng trong 8 tháng qua. Sức mạnh việc làm mang lại cho Cục Dự trữ Liên bang nhiều dư địa hơn trong cuộc chiến chống lại lạm phát, điều này có khả năng giữ lãi suất của Hoa Kỳ cao hơn trong thời gian dài hơn, gây áp lực lên các thị trường châu Á. Các chỉ số Nifty 50 và BSE Sensex 30 của Ấn Độ giảm khoảng 0,4% do các quỹ nước ngoài tiếp tục chốt lãi mạnh, trong khi cổ phiếu Philippines dẫn đầu thua lỗ tại Đông Nam Á với mức giảm 0,9%. Nguồn: Investing.com
Xem thêm

Mua và nắm giữ cổ phiếu khi định giá thị trường dưới 11 lần có thể mang lại hiệu suất cao hơn gửi tiết kiệm

Ngô Minh Ngọc   |  05/01/2023

VDSC không kỳ vọng một con sóng tăng lớn hay một sự điều chỉnh cực mạnh sẽ diễn ra trong năm 2023. Thay vào đó là những đợt sóng nhỏ, mà trong đó, những nhịp đi xuống sẽ mang lại cơ hội tích lũy cổ phiếu với mức giá tốt cho nhà đầu tư. Sau một năm 2022 đầy thăng trầm, nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng được dự báo vẫn đối diện với những con sóng ngược, ít nhất trong nửa đầu năm 2023. Điều này xuất phát từ lộ trình tăng lãi suất của FED, kinh tế thế giới suy thoái, và khả năng chống chịu của thanh khoản hệ thống khi lượng trái phiếu đáo hạn lớn trong quý 2/2023. Phòng thủ trước những bất định về vĩ mô năm 2023 Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng thị trường chứng khoán đã phản ánh với những triển vọng tiêu cực nhất trong năm 2022 như Trung Quốc đóng cửa, căng thẳng Nga – Ukraine leo thang, tốc độ tăng gấp lãi suất của FED, khủng hoảng thanh khoản hệ thống gây ra bởi các sự kiện trong nước. Dù vậy, VDSC đánh giá những khó khăn đón chờ trong năm 2023 cũng là những thử thách cần thận trọng quan sát. Quan trọng hơn, bởi tác động cộng hưởng của các sự kiện diễn ra trong năm 2022, tăng trưởng lợi nhuận năm 2023 của các doanh nghiệp dự báo sẽ giảm tốc đáng kể so với mức tăng trưởng của năm 2022. Trong kịch bản cơ sở, VDSC kỳ vọng các khó khăn sẽ từng bước được tháo gỡ sau khi Trung Quốc mở cửa hoàn toàn nền kinh tế và hàng hóa Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất và nhập khẩu toàn cầu, lộ trình tăng lãi suất của FED chấm dứt giúp chính sách tiền tệ có thêm không gian hoạt động. Trong nước, đầu tư công mặc dù còn nhiều nút thắt cần được tháo gỡ để có thể đạt kế hoạch đặt ra, tốc độ giải ngân nhanh hơn cũng sẽ tạo tính lan tỏa sang các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh đó, kỳ vọng chính sách tài khoá sẽ tiếp tục hỗ trợ cho chính sách tiền tệ nhờ gói hỗ trợ lãi suất 2% với khoảng 40 nghìn tỷ đồng được kỳ vọng sẽ ngân tích cực trong năm 2023 khi lãi suất đang tăng cao; duy trì chính sách giảm thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu, và giữ chính sách giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% trong năm 2023 trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Với việc nâng mức lạm phát mục tiêu năm 2023 lên 4,5%, VDSC cho rằng đảm bảo sự ổn định thanh khoản của hệ thống và kiểm soát đà tăng lãi suất nhằm hỗ trợ tăng trưởng sẽ trở thành mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ năm 2023 Với cơ sở trên , VDSC không kỳ vọng một con sóng tăng lớn hay một sự điều chỉnh cực mạnh sẽ diễn ra trong năm 2023. Thay vào đó là những đợt sóng nhỏ, mà trong đó, những nhịp đi xuống sẽ mang lại cơ hội tích lũy cổ phiếu với mức giá tốt cho nhà đầu tư. Để có thể tối ưu được các cơ hội như trên, VDSC khuyến nghị chiến lược phòng thủ ít nhất trong nửa đầu năm 2023, với việc hạn chế hết mức tối đa việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong những nhịp thị trường tăng tốc bất ngờ nhưng thiếu sự hậu thuẫn bởi những thay đổi cơ bản về vĩ mô. Nhà đầu tư có thể dành một phần danh mục cho việc giao dịch ngắn hạn, nhằm tối ưu hóa hiệu suất đầu tư trong năm. VDSC thống kê cho thấy, định giá P/E của thị trường chỉ giảm về mức 9.x – 11.x lần trong những giai đoạn vĩ mô đối diện thử thách và việc mua và nắm giữ cổ phiếu khi P/E thị trường ở mức 9.x – 11.x sẽ mang lại hiệu suất đầu tư cao vượt trội so với lãi suất tiết kiệm nếu nắm giữ khoản đầu tư trong hai năm. Do vậy, bên cạnh việc phân bổ vốn vào kênh tiết kiệm, nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc giải ngân ở những cổ phiếu tốt thuộc các nhóm ngành hưởng lợi lớn trong xu hướng tích cực trong dài hạn của vĩ mô Việt Nam. Nguồn: Phương Linh - Nhịp sống thị trường
Xem thêm

3 năm gần nhất chứng khoán Việt Nam đều không có "hiệu ứng tháng Giêng", 2023 liệu có khác?

Ngô Minh Ngọc   |  04/01/2023

Thông tin tích cực cho nhà đầu tư, tổng cộng có 12/22 lần trong tháng 1 chỉ số VN-Index tăng điểm so với đầu tháng. Hiệu ứng tháng Giêng là thuật ngữ quen thuộc trong lĩnh vực chứng khoán, nói về sự tăng trưởng của cổ phiếu trong tháng đầu tiên của năm. Tuy nhiên hiệu ứng này đều đã không được ghi nhận trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong suốt ba năm 2020-2022. Chỉ số VN-Index đều ghi nhận mức giảm từ 1,3% đến 4,3% trong ba tháng 1 gần nhất. Rộng ra, thống kê trong 22 năm đã qua của thị trường chứng khoán Việt Nam, tháng 1 VN-Index có hiệu suất "tệ" nhất ghi nhận vào năm 2002 với đà giảm gần 12% so với đầu tháng; tháng 1/2008 cũng ghi nhận mức giảm gần 9%. Đặc biệt trong bối cảnh thị trường chung vẫn còn khá nhiều thách thức sau đà giảm gần 33% của năm 2022 đã qua, nhịp tăng của VN-Index trong tháng 1/2023 vẫn là một dấu hỏi lớn. Dù vậy, thông tin tích cực cho nhà đầu tư, tổng cộng có tới 12 lần trong tháng 1 chỉ số VN-Index tăng điểm so với đầu tháng, cao hơn so với 10 tháng giảm. Đà tăng cũng áp đảo, giá trị bứt phá mạnh nhất diễn ra vào tháng 1/2007 khi chỉ số sàn HoSE tăng hơn 38,5%, năm 2013 cũng ghi nhận mức tăng xấp xỉ 16% hay trở ngược về quá khứ với mức tăng hơn 28% của tháng 1/2004. Yếu tố khác có thể kỳ vọng là định giá P/E của VN-Index hiện đạt xấp xỉ 10,5 lần, tiệm cận mức thấp nhất trong 10 năm (10,3 lần) vào ngày 5/11/2012. Mức định giá này cũng gần về định giá mà VN-Index đã từng ghi nhận trong làn sóng Covid thứ nhất vào ngày 31/3/2020. So với mức định giá trung bình 10 năm khoảng 16 lần và mức trung vị 10 năm 16,23 lần, mức định giá theo P/E hiện tại của VN-Index thấp hơn đáng kể. Theo FIDT, khi so sánh với các chỉ số quốc tế và khu vực, P/E của Vn-Index đang ở mức thấp nhất so với các thị trường khu vực và quốc tế. Dù P/B của VN-Index thấp hơn trung bình các thị trường và cao hơn khối ASEAN-5 và Trung Quốc, nhưng khi xét đến yếu tố ROE (thước đo quan trọng cho mức P/B hợp lý) thì định giá thị trường Việt Nam vẫn tương đối rẻ hơn các thị trường khu vực và quốc tế nhờ có mức định giá hấp dẫn. Tương tự, Chứng khoán Rồng Việt cũng khuyến nghị việc mua và nắm giữ cổ phiếu khi P/E thị trường ở mức 9.x – 11.x sẽ mang lại hiệu suất đầu tư cao vượt trội so với lãi suất tiết kiệm nếu nắm giữ khoản đầu tư trong hai năm. Do vậy, bên cạnh việc phân bổ vốn vào kênh tiết kiệm, nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc giải ngân ở những cổ phiếu tốt thuộc các nhóm ngành hưởng lợi lớn trong xu hướng tích cực trong dài hạn của vĩ mô Việt Nam. Ngoài ra, thống kê trong hơn 22 năm giao dịch của thị trường chứng khoán Việt Nam, hiệu suất trung bình của VN-Index trong vòng một tháng đạt mức cao nhất là vào tháng 12 và tháng 1 hàng năm. Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2000 tới hiện tại, hiệu suất trung bình của VN-Index trong tháng 12 đạt 3,45%, cao nhất cả năm; xếp tiếp theo là tháng 1 liền sau đó với mức hiệu suất trung bình cũng lên tới 2,82%. Như vậy, dù chưa kịp gom cổ phiếu trong tháng cuối năm ngoái, hiện tại nếu mua cổ phiếu vào tháng 1 và bán ra trong tháng 2 thì nhà đầu tư vẫn có thể đạt hiệu suất trung bình tương đối ấn tượng. Theo ông Trương Thái Đạt, Giám đốc khối Phân tích Chứng khoán DSC, một nhà đầu tư chuyên nghiệp sẽ không để tâm lý nghỉ Tết ảnh hưởng đến hoạt động giao dịch, họ tiếp tục duy trì chiến lược giao dịch và nắm giữ các cổ phiếu còn dư địa tăng giá. Nguồn: Phương Linh - Nhịp sống thị trường
Xem thêm

Chứng khoán Việt Nam giảm mạnh trong năm 2022, hàng loạt “cá mập” chìm trong thua lỗ

Ngô Minh Ngọc   |  03/01/2023

Hầu hết các quỹ đầu tư lớn trên thị trường đều có hiệu suất âm, thậm chí có những cái tên lỗ đến trên 40% trong năm 2022. Thị trường chứng khoán đã khép lại một năm đầy sóng gió với VN-Index mất gần 33% và lọt top các chỉ số giảm mạnh nhất thế giới. Nhiều cổ phiếu mất nửa thị giá, thậm chí “bốc hơi” 70-80% sau một năm. Không chỉ nhà đầu tư cá nhân, các “cá mập” trên thị trường cũng đành ngậm ngùi lỗ nặng trong năm 2022. Với đặc thù mô phỏng theo rổ chỉ số nhất định, các quỹ ETF có phần khó xoay sở hơn trước những biến động không thuận lợi của thị trường chung. Hầu hết các ETF đều lỗ sâu hơn mức giảm của VN-Index, thậm chí bộ đôi VNM ETF, FTSE Vietnam ETF còn có hiệu suất âm 45-50% trong năm qua. Fubon ETF, SSIAM VNFinLead ETF, DCVFM VN30 ETF đều lỗ trên 30% từ đầu năm trong khi DCVFM VNDiamond ETF khả quan nhất cũng có hiệu suất âm gần 21%. Mặc dù hiệu suất đầu tư không mấy khả quan nhưng các quỹ ETF vẫn hút tiền rất mạnh và đóng góp lớn vào việc kéo khối ngoại trở lại TTCK Việt Nam. Trong năm qua, các quỹ ETF đã hút ròng hơn 1 tỷ USD với 2 “đầu tàu” là Fubon ETF và DCVFM VNDiamond ETF. Fubon ETF vẫn không ngừng gọi thêm vốn từ khu vực Đông Á để đầu tư vào Việt Nam trong khi DCVFM VNDiamond ETF hút tiền rất mạnh từ Thái Lan qua kênh DR.   Các quỹ chủ động dù có phần linh hoạt hơn nhưng cũng có hiệu suất khá tệ. JPMorgan VOF cùng bộ đôi VEIL và DCDS của Dragon Capital đều lỗ sâu hơn mức giảm của VN-Index và VN30-Index. Mặc dù chiến thắng 2 chỉ số chính nhưng VOF VinaCapital, KIM Vietnam Korea, Pyn Elite Fund và Lion Global Vietnam Fund cũng đều lỗ trên 25%. Quỹ ngoại đến từ Phần Lan Pyn Elite thậm chí còn ghi nhận hiệu suất tệ nhất kể từ khi đầu tư vào Việt Nam năm 2013. Ngoài DCDS có phân bổ tài sản vào trái phiếu và VOF VinaCapital đầu tư vào “private equity”, hầu hết các quỹ đầu tư trên đều thường xuyên trong trạng thái “full” cổ phiếu. Điều này khiến các “cá mập” không thể đi ngược xu hướng của thị trường dù vẫn miệt mài cơ cấu danh mục nhằm thích ứng với những biến động. Mặc dù hiệu suất đầu tư không mấy khả quan nhưng các quỹ ngoại vẫn đánh giá cao triển vọng dài hạn của chứng khoán Việt Nam. Minh chứng rõ ràng nhất là động thái mua ròng mạnh của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong 2 tháng cuối năm. Giá trị mua ròng trên HoSE lũy kế cả năm 2022 đạt gần 27.000 tỷ đồng. Tính chung trên cả 3 sàn, con số này thậm chí còn lên đến 29.000 tỷ đồng. Theo ông Petri Deryng – người đứng đầu Pyn Elite Fund, diễn biến trồi sụt của thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm nay là điều bất thường. Đặc biệt, trong quý 3, đồng VND mất giá, lãi suất tăng cộng thêm việc thị trường TPDN dường như “đóng băng” khiến kênh cổ phiếu chịu áp lực bán tháo. So sánh với các thị trường khác trong khu vực ASEAN, không thị trường nào có mức giảm tương tự. Do đó, TTCK Việt Nam được kỳ vọng sẽ phục hồi trở lại khi các vấn đề đang dần được khắc phục. Ông Petri Deryng cho rằng những ngày “giông bão” mà TTCK Việt Nam vừa trải qua sẽ mang lại triển vọng lợi nhuận tươi sáng trong năm tới. “Niềm tin của nhà đầu tư được cải thiện, chúng ta có thể kỳ vọng VN-Index sẽ đi theo lộ trình tăng trưởng của nền kinh tế và triển vọng tăng trưởng lợi nhuận các doanh nghiệp trong 12 tháng tới. Trong số các nước ASEAN, triển vọng tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận của các công ty niêm yết ở Việt Nam là mạnh mẽ nhất ” – sếp PYN Elite nhấn mạnh. Nguồn: Hà Linh - Nhịp sống thị trường
Xem thêm

Góc nhìn chuyên gia: Tâm lý thận trọng chi phối, thị trường khó biến động mạnh trong tuần đầu năm mới

Ngô Minh Ngọc   |  02/01/2023

Theo ông Đỗ Bảo Ngọc, khi tâm lý nghỉ Tết đang chi phối, nhà đầu tư ngắn hạn nên duy trì sự thận trọng, kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của thị trường trong phiên và chủ động hiện thực hóa lợi nhuận từng phần Tâm lý nghỉ Tết chi phối, thị trường gặp áp lực điều chỉnh Ông Nguyễn Anh Khoa – Trưởng phòng Phân tích Chứng khoán Agriseco: Mặc dù tâm lý thị trường nhìn chung khá thận trọng do thị trường đang trong vùng trũng thông tin và kỳ nghỉ Tết tới gần làm gia tăng nhu cầu thanh khoản. Tuy nhiên, lực cầu bắt đáy vẫn xuất hiện khi chỉ số lui về ngưỡng hỗ trợ quan trọng 985-1.000 điểm. Điều này cho thấy nhiều nhà đầu tư vẫn đang tìm kiếm các cơ hội bắt đáy tại vùng giá thấp. Quan sát diễn biến thị trường, lực cầu này có thể từ khối nhà đầu tư nước ngoài, khi họ vẫn tiếp tục mua ròng trong 4 phiên gần đây với tổng giá trị gần 2.000 tỷ đồng do hiệu ứng giao dịch của các quỹ tại thời điểm cuối năm. Với việc xu hướng thị trường vẫn chưa có nhiều tín hiệu rõ ràng và các thông tin hỗ trợ tương đối ít, không ngoại trừ khả năng chỉ số có thể sẽ có thêm 1-2 nhịp giảm điểm trong các tuần đầu năm 2023 để kiểm định lượng cung – cầu trước khi bước vào xu hướng mới. Ông Đỗ Bảo Ngọc - Phó Giám đốc Công ty Chứng khoán Kiến Thiết (CSI): VN-Index chịu áp lực bán mạnh ngay trong phiên đầu tuần khiến chỉ số chung liên tục đánh mất các mốc hỗ trợ mềm và lui sát về vùng điểm 980. Tuy lực cầu bắt đáy xuất hiện giúp chỉ số phục hồi và lấy lại mốc 1.000 điểm, song thanh khoản sụt giảm rõ rệt cho thấy tâm lý nghỉ Tết rõ nét hơn. Giao dịch khối ngoại dù có phần chững lại, song vẫn là điểm sáng giúp thị trường trụ vững tại ngưỡng hỗ trợ quan trọng. Một điểm sáng là thông tin ước tính vĩ mô trong năm vừa qua với GDP năm 2022 tăng 8,02% do nền kinh tế hồi phục tăng trưởng trở lại sau dịch trên nền thấp của năm 2021. Dù vậy, thông tin này không có quá nhiều tác động tích cực đến TTCK, bởi nền kinh tế vĩ mô vẫn đang bị tác động bởi nhiều chính sách thắt chặt, cung tiền kiểm soát chặt chẽ, lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động phức tạp,… Về dự báo thị trường tuần sau nghỉ lễ, tôi cho rằng VN-Index sẽ cải thiện một chút về thanh khoản và điểm số, song khó có giao dịch đột biến vì tâm lý nghỉ Tết đã rất rõ nét. Thị trường sẽ giao dịch trong biên độ hẹp quanh mức 980 - 1.000 điểm. Nhiều gam màu xám trong KQKD quý 4 sắp công bố Ông Nguyễn Anh Khoa: Dự phóng về kết quả kinh doanh quý 4/2022, tôi nghiêng bức tranh lợi nhuận toàn thị trường sẽ thiên nhiều về gam màu xám. Mặc dù vẫn sẽ có một số nhóm ngành sẽ có sự tăng trưởng so với cùng kỳ như hàng không – du lịch hay thực phẩm – đồ uống. Đối với nhóm ngân hàng , KQKD quý 4 sẽ có sự phân hoá khi những doanh nghiệp có chất lượng tài sản và năng lực tài chính tốt cùng quy mô lớn có thể vẫn tiếp tục có sự tăng trưởng. Ngược lại các ngân hàng quy mô nhỏ hơn có thể gặp áp lực từ việc thu hẹp biên lãi thuần kết hợp với khả năng phải trích lập dự phòng khi rủi ro nợ xấu tăng lên. Đối với nhóm bất động sản , KQKD quý 4 sẽ chưa khởi sắc khi các hoạt động thi công dự án hay bán hàng đều tương đối trầm lắng, trong khi các chính sách ngành hiện mới dự thảo và vẫn cần thời gian để có thể được phê duyệt. Đối với nhóm thép , áp lực về chi phí tài chính so với quý 3 sẽ giảm bớt khi tỷ giá USD/VND có xu hướng giảm trong quý 4. Đây là yếu tố có thể hỗ trợ phần nào kết quả lợi nhuận của nhóm này. Bàn về định giá thị trường, P/E hiện đang ở vùng thấp ngang đáy thời điểm Covid-19, song mức định giá thấp chủ yếu do mức P/E của ngành ngân hàng thấp hơn đáng kể trung bình ngành (khoảng 8 lần P/E so với mức gần 11 lần của VN-Index). Do đó, định giá của các nhóm ngành còn lại nhìn chung đang khá phù hợp với trung bình lịch sử. Trong bối cảnh KQKD quý 4 có thể phân hóa, nhiều nhóm cổ phiếu trụ như bất động sản, thép còn nhiều khó khăn, chuyên gia cho rằng định giá P/E của thị trường sẽ cao hơn so với hiện tại. Tuy vậy, mức định giá này không quá đắt mà là phù hợp với tình hình thực tế khi mặt bằng lãi suất, tỷ giá đang trong xu hướng lên và Việt Nam đã phải thực hiện nhiều biện pháp linh hoạt nhằm ổn định lạm phát, lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó, tôi kỳ vọng diễn biến năm 2023 sẽ có sự hồi phục khi Chính phủ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công vào các dự án trọng điểm như Cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành,... Tỷ giá và lãi suất hạ nhiệt so với năm nay khi dự báo FED sẽ tăng lãi suất lên mức 5-5,25% trong năm 2023 và duy trì tới hết năm và Trung Quốc mở cửa trở lại kể từ đầu tháng 1/2023 sẽ tác động tích cực tới nhiều ngành nghề trọng điểm như xuất khẩu, hàng không – du lịch, khu công nghiệp,… Ông Đỗ Bảo Ngọc: Về bức tranh quý 4 sẽ phản ánh khó khăn của rất nhiều doanh nghiệp. Thực tế những khó khăn đó đã bộc lộ từ cuối quý 3 khi nhiều doanh nghiệp tăng trưởng chậm lại, các doanh nghiệp sản xuất cắt giảm sản lương đóng cửa nhà máy, các doanh nghiệp xuất khẩu thì thiếu hụt đơn hàng, cho công nhân nghỉ luân phiên. KQKD quý 4 sẽ có sự phân hoá rõ nét, những doanh nghiệp chịu biến động của nền kinh tế có thể lỗ khá nặng nề. Chúng ta sẽ nhìn thấy mức nền tăng trưởng lợi nhuận thấp trong quý 4 sắp tới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tâm lý nhà đầu tư thận trọng hơn. Nhóm ngân hàng có KQKD khả quan nhất, song tỷ lệ nợ xấu có khả năng gia tăng hơn trong các quý tiếp theo. Ngành chứng khoán sẽ phân hoá, song mặt bằng chung là suy giảm lợi nhuận khi thanh khoản giảm mạnh. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực thực phẩm đồ uống thì vẫn duy trì KQKD bền vững. Ngược lại, các doanh nghiệp xuất khẩu như thuỷ sản, thép, dệt may, bất động sản cũng có nhiều yếu tố khó khăn. Nhà đầu tư ngắn hạn nên thận trọng quan sát Ông Nguyễn Anh Khoa: Trong ngắn hạn, đặc biệt trước kỳ nghỉ Tết nguyên đán, nhà đầu tư vẫn nên thận trọng quan sát diễn biến thị trường, tránh mua đuổi tại các nhịp chỉ số tăng giá. Đối với các nhà đầu tư nắm giữ lượng đòn bẩy lớn, nên tận dụng nhịp hồi phục của VN-Index để hạ tỷ trọng. Đối với nhà đầu tư nắm giữ trung-dài hạn và đang có sẵn tiền mặt có thể tích luỹ tại nhịp điều chỉnh của thị trường. Dòng tiền sau kỳ nghỉ lễ có thể hướng về các cổ phiếu có câu chuyện trong năm 2023 như nhóm chủ đề đầu tư công (Xây dựng, vật liệu xây dựng); nhóm hưởng lợi từ việc Trung Quốc mở cửa như xuất khẩu (thuỷ sản, dệt may, cao su), khu công nghiệp, hàng không, cảng biển, thép; hay nhóm phòng thủ trong môi trường tỷ giá, lãi suất biến động như thực phẩm thiết yếu, điện, dược hay nhóm doanh nghiệp trả cổ tức trên thị giá cao. Ông Đỗ Bảo Ngọc: Định giá hiện đang ở mức rất thấp, phản ánh đáng kể lo ngại của thị trường trong quý 4. Nhà đầu tư dài hạn nên nắm giữ tỷ trọng tiền mặt lớn để chờ đợi cơ hội giải ngân. Khi bức tranh kinh doanh quý 4 được công bố, những khó khăn cũng hiện ra rõ ràng, thị trường sẽ có khá nhiều cơ hội cho năm 2023. Tuy vậy, đối với giao dịch ngắn hạn, khi tâm lý nghỉ Tết đang chi phối nhà đầu tư tiếp tục duy trì sự thận trọng, kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của thị trường trong phiên và chủ động hiện thực hóa lợi nhuận từng phần đối với danh mục cổ phiếu đã bắt đáy thành công trong những phiên trước đó. Nguồn: Hạ Anh - Nhịp sống thị trường
Xem thêm

Không chỉ tăng lãi suất, một yếu tố then chốt quyết định xu hướng TTCK trong năm 2023

Ngô Minh Ngọc   |  31/12/2022

Nhìn về TTCK trong năm 2023, báo cáo Chứng khoán KBSV cho rằng sẽ có một yếu tố định hình xu hướng thị trường. Sau 2 năm tăng trưởng mạnh, TTCK Việt Nam giảm sâu trong năm 2022 dưới tác động của yếu tố tiêu cực trong và ngoài nước. Đối với các yếu tố ngoại biên, căng thẳng Nga – Ukraine; chính sách zero- Covid của Chính phủ Trung Quốc; các NHTW đẩy nhanh qua trình thắt chặt chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát tăng phi mã; rủi ro suy thoái kinh tế ở Mỹ và EU... là các yếu tố rủi ro chính. Trong khi đó, các yếu tố trong nước như rủi ro từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp với các sự kiện như Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát; quá trình thanh lọc sai phạm trên TTCK; áp lực tỷ giá và lạm phát dẫn đến trạng thái thắt chặt thanh khoản và mặt bằng lãi suất tăng cao; đầu tư công giải ngân chậm... cũng tác động mạnh đến TTCK. Nhìn về TTCK trong năm 2023, báo cáo Chứng khoán KBSV cho rằng sẽ có một số yếu tố chính định hình xu hướng thị trường như việc Trung Quốc mở cửa hoàn toàn, chính sách tiền tệ của Fed và rủi ro suy thoái kinh tế Mỹ, rủi ro từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Bên cạnh những yếu tố trên, KBSV nhấn mạnh về tốc độ tăng cung tiền M2 ảnh hưởng lớn đến TTCK. Cung tiền M2 là yếu tố có tác động mạnh lên diễn biến thị trường, bởi các giai đoạn M2 tăng mạnh, đi kèm với mặt bằng lãi suất ở mức thấp thường tạo điều kiện thuận lợi cho dòng tiền chảy vào TTCK giúp VN-Index tăng điểm và ngược lại. Đưa ra dẫn chứng cụ thể, các giai đoạn 2006 - 2007, 2009, 2016 -2017, 2020 – 2021, TTCK Việt Nam đều có xu hướng tăng trưởng mạnh đi kèm với cung tiền M2 tăng cao (lớn hơn 14%) nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố như chính sách tiền tệ mở rộng của SBV và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cao. Trong đó bao gồm cả chi đầu tư công của Chính phủ và vay mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước, trong khi nguồn vốn nước ngoài chảy vào cũng dồi dào. Ngược lại, thị trường các giai đoạn 2011, 2018, và 2022 TTCK Việt Nam đều có xu hướng điều chỉnh đi kèm cùng tiền M2 tăng trưởng thấp (thấp hơn 12.5%) trước các yếu tố bất lợi bên trong và bên ngoài. Trên thực tế, tăng trưởng cung tiền M2 đạt mức thấp kỷ lục ước tính đạt 6% -7% trong năm 2022 là 1 trong những nguyên nhân quan trọng khiến TTCK Việt Nam lao dốc. Cung tiền sụt giảm đến từ 2 nguyên nhân là chính sách tiền tệ của SBV, khi tỷ giá và thị trường ngoại tệ bị chịu áp lực do cân đối cung cầu ngoại tệ và thị trường quốc tế có diễn biến bất lợi (Fed 5 lần nâng lãi suất điều hành để kìm cương đà tăng của lạm phát, và DXY Index tăng mạnh kể từ đầu năm) đã gây áp lực lên thị trường trong nước, buộc SBV phải bán ngoại tệ khi cần thiết để ổn định thị trường. Bên cạnh đó, chi tiêu giải ngân đầu tư công của chính phủ ở mức thấp, tiền của kho bạc nhà nước để tại SBV và hệ thống ngân hàng ước đạt hơn 900 nghìn tỷ VND chưa được đẩy vào lưu thông (cụ thể, ở SBV khoảng 600 nghìn tỷ VND và hệ thống ngân hàng 300 nghìn tỷ VND). Dự báo cho năm 2023, KBSV cho rằng tăng trưởng cung tiền sẽ chịu tác động trái chiều. Kỳ vọng tăng trưởng cung tiền trong năm 2023 sẽ hồi phục lại dựa trên nền cơ sở thấp của năm 2022 do một số điều kiện khách quan thuận lợi như NHNN có khả năng mua vào USD, dự trữ ngoại hối gia tăng cải thiện tăng trưởng cung tiền hay đầu tư công được thúc đẩy. Tuy vậy, tăng trưởng cung tiền vẫn có khả năng chịu tác động tiêu cực khi nhu cầu vay vốn mới của doanh nghiệp dự báo suy giảm do lãi suất cao, Trung Quốc mở cửa gây áp lực lên giá cả nhiều hàng hoá và rủi ro liên quan đến đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp. Với cơ sở trên, KBSV dự báo tăng trưởng tín dụng năm 2023 sẽ đạt 13-14 % so với cùng kỳ, huy động tăng cao đạt 12% giúp cung tiền tăng trở lại 13% – một phần do nền thấp của năm 2022. Do đó, thanh khoản hệ thống theo đó cũng sẽ bớt căng thẳng hơn, tạo điều kiện nền lãi suất sẽ hạ nhiệt so với cuối quý 4/2022, dù vẫn duy trì ở mức cao. Với mối tương quan cao của M2 và P/E VN-Index như phân tích ở trên, việc M2 tăng trưởng trở lại là động lực quan trọng giúp P/E thị trường cân bằng trở lại và hướng về mốc trung tính, tương ứng với đó vùng điểm hợp lý của chỉ số VN-Index cuối năm 2023 ở 1.240 điểm Nguồn: Hạ Anh - Nhịp sống thị trường
Xem thêm
Chat hỗ trợ
Chat ngay
facebook