Thị trường hàng hóa

Giá đồng nhiều khả năng vẫn sẽ gặp áp lực bán trước những triển vọng kinh tế kém sắc

Ngô Minh Ngọc   |  06/01/2023

Sau phiên giảm khá mạnh ngày hôm qua, giá đồng mở cửa phiên giao dịch sáng nay với biên độ dao động tương đối hẹp khi thị trường thiếu vắng các thông tin cơ bản mang tính hỗ trợ. Tình hình dịch bệnh vẫn đang cản trở nhiều hoạt động kinh tế tại Trung Quốc trong bối cảnh quốc gia này mở cửa trở lại. Theo thông tin từ Shanghai Metal Market (SMM), tỷ lệ hoạt động của các nhà sản xuất dây và cáp đồng đạt trung bình 69.61% trong tháng 12 năm 2022, giảm 9.79 điểm phần trăm theo tháng và 9.9 điểm phần trăm theo năm. So với tháng trước, tỷ lệ hoạt động của các doanh nghiệp kho cảng và nhà máy sơ chế đồng giảm là nguyên nhân khiến tỷ lệ hoạt động bình quân của các doanh nghiệp sản xuất dây và cáp đồng giảm. Việc loại bỏ trợ cấp NEV Trung Quốc đã thúc đẩy người tiêu dùng mua xe trước, điều này cho thấy nhu cầu vào năm 2023 có thể hạ nhiệt. Lĩnh vực bất động sản vẫn khá trì trệ trong bối cảnh thiếu vốn, dự án gián đoạn do tình hình Covid. Đây tiếp tục sẽ là những rào cản đối với bài toán tiêu thụ trong ngắn hạn và có thể gây sức ép tới giá. Về mặt vĩ mô, giá đồng nhiều khả năng sẽ theo sát diễn biến của đồng Dollar Mỹ trong phiên hôm nay khi các nhà đầu tư hướng sự chú ý vào Biên bản họp cả Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được công bố vào đêm nay. Các quan chức đã đưa ra mức lạm phát kết thúc năm 2023 khoảng 3.1%, tính trên dự báo trung bình, cao hơn so với 2.8% trong dự báo hàng quý trước đó được công bố vào tháng Chín. Điều này cho thấy lạm phát vẫn sẽ là mối lo ngại đáng chú ý, khiến nhiều quan điểm đồng thuận rằng lãi suất phải ở trên ngưỡng 5%. Khả năng biên bản sẽ cho thấy các ý kiến “khá diều hâu”, có thể khiến đống Dollar Mỹ tăng trở lại và gây sức ép tới giá đồng trong phiên. Nguồn: Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV)
Xem thêm

Điểm nhấn đặc biệt nào sẽ chiếu sáng lĩnh vực sắt thép trong năm 2023?

Ngô Minh Ngọc   |  05/01/2023

Sau một thời gian dài liên tục lao dốc trước hàng loạt sức ép từ vĩ mô đến bài toán về nhu cầu, giá sắt thép trên thế giới đã bắt đầu bước vào giai đoạn phục hồi trong khoảng 2 tháng trở lại đây. Biến động của thị trường vẫn còn tiềm ẩn, song tín hiệu tích cực hứa hẹn sẽ thổi một làn gió mới cho ngành sắt thép trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Kỳ vọng về nhu cầu tại Trung Quốc kéo giá sắt thép phục hồi Là nguyên vật liệu đầu vào quan trọng cho ngành sản xuất thép, quặng sắt đã lấy lại đà phục hồi đáng kể sau khi chạm đáy thấp nhất trong khoảng gần 3 năm vào hồi cuối tháng 10/2022. Theo Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV), kết thúc phiên giao dịch ngày 03/01, mặc dù nhiều kim loại cơ bản như đồng, nhôm, chì gặp áp lực bán mạnh, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1 niêm yết trên Sở Giao dịch Singapore (SGX) chỉ giảm nhẹ 0,01%. Chỉ số MXV-Kim loại đạt mức 1.809 điểm, tăng 0,06% so với phiên trước. Như vậy, trong 2 tháng trở lại đây, giá quặng sắt đã tăng khoảng 36%, chủ yếu do kỳ vọng của các nhà đầu tư đối với bức tranh nhu cầu sẽ dần phục hồi trở lại trên thị trường tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc. Bên cạnh chính sách kích thích của Trung Quốc cho thị trường bất động sản vốn đã gặp nhiều áp lực, động lực tăng của giá sắt càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn khi nền kinh tế này tiến hành mở cửa trở lại. Điều đó giúp cho đà phục hồi đối với giá quặng sắt trở nên rõ rệt hơn kể từ đầu tháng 12 cho đến nay. Cùng chung xu hướng đó, giá thép trên thế giới cũng bước vào nhịp tăng ấn tượng. Tính đến ngày 03/01/2023, giá thép cuộn cán nóng (HRC) của Trung Quốc đạt mức 4.138 NDT/tấn, tăng hơn 11% so với mức đáy thiết lập hồi đầu tháng 11. Mặc dù vẫn sẽ phải chịu những áp lực tiêu thụ nhất định trong ngắn hạn, do dịch bệnh cần phải đạt đỉnh trước khi hạ nhiệt, song niềm tin về sự nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ Trung Quốc đã giúp các nhà máy tăng cường công suất hoạt động. Bên cạnh đó, một số nền kinh tế châu Á khác cũng đang được kỳ vọng sẽ giúp cho ngành thép lấy lại động lực phát triển. Ấn Độ sẽ trở thành điểm sáng mới cho ngành thép trên thế giới Theo Hiệp hội Thép Thế giới (WS), sản lượng thép tại Trung Quốc trong tháng 11/2022 tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái trước một số tín hiệu đáng khích lệ từ gói kích thích trong lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh đè nặng lên nhu cầu đã khiến sản lượng tích luỹ 11 tháng đầu năm 2022 vẫn giảm 1,4% so với cùng giai đoạn năm 2021. Trong khi đó, sản lượng thép tại Ấn Độ trong tháng 11 vừa qua ghi nhận mức tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước đó, đồng thời đà tăng khá bền vững đã giúp mức lũy kế sản lượng 11 tháng cũng tăng 6% so với năm 2021. Sẵn sàng vượt qua Trung Quốc để trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 2023, Ấn Độ đang ở giữa thời kỳ bùng nổ xây dựng. Do đó, nền kinh tế này đang nổi lên như một vị cứu tinh cho nhu cầu thép toàn cầu. Cũng theo dự báo của WS, nhu cầu thép tại Ấn Độ sẽ tăng 6,7% lên khoảng 120 triệu tấn vào năm 2023, mức tăng trưởng cao nhất trong số các nền kinh tế tiêu thụ sắt thép lớn. Con số này có thể sẽ lên tới 200 triệu tấn vào năm 2030, với nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng được dự báo sẽ bùng nổ. Với đà phục hồi của Trung Quốc hay sự nổi lên của thị trường Ấn Độ, đều là các đối thủ cạnh tranh rất lớn, ngành thép Việt Nam trong năm nay sẽ còn gặp phải nhiều thách thức. Tuy nhiên, sẽ vẫn có các cơ hội mà Việt Nam có thể tận dụng, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu sắt thép xây dựng. Ngành thép Việt Nam cần tận dụng cơ hội thúc đẩy xuất khẩu Ấn Độ sản xuất phần lớn lượng thép cho tiêu thụ nội địa, nhưng quốc gia này cũng buộc phải nhập khẩu nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu gia tăng. Chính phủ Ấn Độ cũng đang tìm cách hiện đại hóa hệ thống đường xá, mạng lưới đường sắt và cảng nhằm hướng tới phát triển một trung tâm sản xuất quy mô. Theo MXV, giai đoạn xây dựng của bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần rất nhiều thép, trong khi đó, sản xuất và xuất khẩu thép xây dựng là thế mạnh chính của Việt Nam. Đây có thể sẽ là cơ hội tốt cho hoạt động thương mại quốc tế của ngành thép trong nước trong việc tìm kiếm thêm các đối tác tiềm năng. Đối với Trung Quốc, nền kinh tế khổng lồ này vẫn nhập khẩu một lượng thép đáng kể từ nước ta. Sau khi mở cửa trở lại, hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được coi là nhiệm vụ tất yếu, và Việt Nam hoàn toàn có cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng tới mở rộng thị phần. Ngoài ra, thị trường chính của Việt Nam vẫn sẽ là các quốc gia thuộc khu vực ASEAN, chiếm tới 42% cơ cấu xuất khẩu thép. Mặc dù các áp lực kinh tế trước bài toán tăng trưởng toàn cầu chậm lại có thể sẽ là thách thức lớn, song xu hướng đa dạng hóa hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài tại khu vực này cũng sẽ là tín hiệu tích cực cho nhu cầu sắt thép trong hoạt động công nghiệp, khai lối cho hoạt động xuất khẩu sắt thép của Việt Nam. Nguồn: Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV)
Xem thêm

Dòng tiền đầu tư mạnh mẽ quay trở lại thị trường hàng hoá trong ngày đầu năm 2023

Ngô Minh Ngọc   |  04/01/2023

Theo thông tin từ Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV), trở lại sau kỳ nghỉ lễ, thị trường hàng hoá biến động rất mạnh trong ngày hôm qua 03/01. Đặc biệt, đà lao dốc của các mặt hàng năng lượng đã kéo chỉ số MXV- Index giảm hơn 2%, xuống 2.396 điểm. Tuy nhiên, dòng tiền đầu tư trở lại thị trường mạnh mẽ, thể hiện qua mức tăng rất mạnh, gần gấp đôi so với ngày cuối năm 2022, đạt trên 5.000 tỷ đồng. Trong đó, tính riêng nhóm năng lượng, giá trị giao dịch đã đạt gần 3.000 tỷ đồng, chiếm tới 58% tổng dòng tiền kể trên. Điều này tiếp tục khẳng định sức hấp dẫn của các mặt hàng năng lượng, đặc biệt là dầu thô, đối với nhà đầu tư Việt Nam. Các mặt hàng nông sản đồng loạt giảm giá Thị trường nông sản chìm trong sắc đỏ ở phiên giao dịch đầu tiên sau đợt nghỉ lễ đầu năm mới. Lực bán cũng chiếm ưu thế đối với ngô và giá đóng cửa với mức giảm hơn 1%. Mặc dù nhu cầu ngô trong sản xuất thức ăn chăn nuôi vẫn được kỳ vọng sẽ gia tăng nhưng áp lực cạnh tranh từ nguồn cung Nam Mỹ đã khiến cho giá suy yếu trở lại. Theo số liệu mới nhất của chính phủ Brazil, nước này đã xuất khẩu 6,41 triệu tấn ngô trong tháng trước, cao hơn mức 6,06 triệu tấn trong tháng 11 và vượt xa so với mức 2,71 triệu tấn trong cùng kỳ năm ngoái. Ngược lại, báo cáo xuất khẩu của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã chỉ ra rằng, có 667.010 tấn ngô Mỹ đã lên tàu thông quan và xuất khẩu trong tuần vừa rồi, thấp hơn đáng kể so với mức 922.142 tấn trong báo cáo trước đó. Con số này cũng xấp xỉ với mức thấp nhất trong khoảng dự đoán của thị trường và mức lũy kế từ đầu năm đến nay vẫn đang chậm hơn đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy rằng mặc dù nguồn cung sẵn có đang dồi dào hơn nhưng ngô Mỹ vẫn đang chịu áp lực cạnh tranh khá lớn từ Brazil. Trong khi đó, lúa mì cũng ghi nhận mức giảm mạnh tới hơn 2% ở phiên hôm qua. Nguồn cung nới lỏng là nguyên nhân chính lý giải cho áp lực bán tháo đối với mặt hàng này. Theo báo cáo từ Ủy ban châu Âu (EU Commission), xuất khẩu lúa mì mềm tính từ đầu niên vụ đến nay của khối đã đạt mức 16,71 triệu tấn, cao hơn 5,8% so với cùng kì năm ngoái. Nguồn cung nới lỏng hơn sẽ là yếu tố gây sức ép lên giá lúa mì. Bên cạnh đó, theo APK-Inform, giá lúa mì Nga đang chịu áp lực suy yếu do chính sách thuế của Bộ Nông nghiệp nước này. Bất chấp sự suy yếu đáng kể của đồng Rúp so với đồng Đô-la Mỹ, giá mua lúa mì thực phẩm chỉ tăng nhẹ trong hai tuần qua tại các cảng biển của Nga. Điều này chủ yếu là do Bộ Nông nghiệp Nga đã liên tục tăng thuế xuất khẩu lúa mì áp dụng trong tuần 28/12-10/01 và tuần 11/01-17/01. Thêm vào đó, nhu cầu thu mua lúa mì thấp từ các thương nhân đã gây thêm sức ép lên giá. Hầu hết các thương nhân đã có đủ lúa mì để thực hiện các hợp đồng đã ký. Thông tin trên cũng góp phần tạo sức ép lên giá lúa mì Chicago đủ để chính phủ nước này kiểm soát giá. Cùng chung diễn biến, giá cả ba mặt hàng nhóm đậu tương đều đồng loạt đóng cửa trong sắc đỏ. Giá đậu tương đã sụt giảm hơn 2% sau 5 phiên tăng giá liên tiếp. Từ khi mở cửa, lực bán đối với đậu tương đã chiếm ưu thế và đà giảm được duy trì đến cuối phiên. Những cải thiện về vụ mùa của Brazil là nguyên nhân khiến giá chịu ép. Dầu thô lao dốc 4% Giá dầu lao dốc trong phiên giao dịch đầu tiên của năm 2023 do sức ép từ các yếu tố vĩ mô và triển vọng kinh tế toàn cầu. Kết thúc phiên 3/1, giá dầu thô WTI giảm 4,15% về 76,93 USD/thùng, giá dầu thô Brent giảm 4,43% về 82,1 USD/thùng.  Giá dầu đi ngang trong phần lớn thời gian của ngày khi mà các nhà đầu tư thận trọng cân nhắc các số liệu kinh tế của Trung Quốc. Sức ép bán bắt đầu được gia tăng một cách rõ ràng khi đồng USD tăng mạnh, phản ánh qua việc chỉ số Dollar Index tăng lên mức 104,5 điểm, cao nhất trong gần ba tuần. Đồng bạc xanh mạnh lên khiến chi phí đầu tư và kinh doanh dầu thô đắt đỏ hơn và làm giảm động lực mua của các nhà giao dịch.    Bên cạnh đó, thị trường cũng phản ánh những lo ngại về triển vọng phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc, khi nước này vẫn phải gồng mình để chống chọi với số ca nhiễm đang tăng hàng ngày. Mới đây, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành tăng hạn ngạch xuất khẩu các sản phẩm lọc dầu (xăng, dầu diesel) trong đợt đầu tiên của năm 2023 lên 18,99 triệu tấn, cao hơn 46% so với mức 13 triệu tấn được phân bổ một năm trước đó.   Nhiều nhà phân tích cho rằng động thái tăng xuất khẩu của Trung Quốc đang cho thấy kỳ vọng rằng nhu cầu tiêu thụ nội địa sẽ tiếp tục kém đi trong thời gian tới. Bên cạnh đó, hạn ngạch có thể khuyến khích các nhà máy lọc dầu tại quốc gia này tăng công suất và duy trì xuất khẩu nhiên liệu ở mức kỷ lục trong nửa đầu năm, giảm thiểu tác động của việc cắt giảm xuất khẩu dầu diesel của Nga khi lệnh trừng phạt của Liên minh Châu Âu có hiệu lực vào tháng Hai.  Giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) làm gia tăng lo ngại của các nhà đầu tư khi cảnh báo rằng cả ba nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ, Châu Âu và Trung Quốc đang đồng thời giảm tốc.   Triển vọng tiêu thụ ảm đạm trong khi sức ép từ phía nguồn cung không quá nhiều khiến cho giá dầu không nhận được nhiều sự hỗ trợ. Chính phủ Mỹ ước tính sản lượng dầu đá phiến tăng trung bình từ 300.000 – 400.000 thùng/ngày vào năm 2023. Mức tăng khá khiêm tốn do các hoạt động sản xuất gặp khó khăn vì nhiều vấn đề về vận hành và nhân sự. Tuy nhiên, sức mua không được cải thiện, bởi tin tức tập đoàn dầu khí hàng đầu của Mỹ Chevron đang chuẩn bị tiếp nhận lô hàng dầu thô lên tới 500.000 thùng từ Venezuela đã xoa dịu đi nỗi lo về nguồn cung.   Một diễn biến rất đáng chú ý khác, giá khí tự nhiên dẫn dắt xu hướng toàn thị trường khi giảm sâu gần 11% về dưới mốc 4 USD/MMBtu. Giá gặp sức ép lớn trong bối cảnh nguồn cung trên toàn cầu được nới lỏng. Mới đây, theo Bloomberg, Mỹ đã đuổi kịp Qatar để trở thành nhà xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng LNG lớn nhất thế giới. Cả hai quốc gia này đã xuất khẩu tới 81,2 triệu tấn LNG trong năm 2022. Cùng với đó, thời tiết mùa đông ấm áp hơn dự kiến trên khắp các khu vực trên thế giới đang nhanh chóng xoa dịu lo ngại về cuộc khủng hoảng khí tự nhiên toàn cầu. Giá gas nội địa giảm lần đầu tiên trong năm 2023 Trên thị trường nội địa, cùng chiều xu hướng giá thế giới, bắt đầu từ sáng 01/01, giá gas trong nước đồng loạt được điều chỉnh giảm khoảng 14.000 đồng/bình 12kg và 58.000 đồng/bình 50kg. Theo đó, giá gas bán lẻ đến tay người tiêu dùng tối đa 447.500 đồng/bình 12kg và không quá 1.864.000 đồng/bình 50kg; đánh dấu kỳ giảm giá đầu tiên của giá gas trong nước trong năm 2023. Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV)
Xem thêm

Thị trường hàng hóa đón nhận lực mua tích cực trong tuần giao dịch cuối năm 2022

Ngô Minh Ngọc   |  03/01/2023

Theo thông tin từ Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), thị trường hàng hóa nguyên liệu thế giới đóng cửa tuần giao dịch cuối cùng trong năm 2022 với lực mua chiếm ưu thế. Đà tăng mạnh của một số mặt hàng quan trọng đã hỗ trợ chỉ số MXV- Index  tăng 0,51%, chốt năm 2022 ở mốc 2.445 , cao hơn 107 điểm so với ngày đầu tiên của năm. Mặc dù giá trị giao dịch ngày cuối năm có sự sụt giảm, đạt hơn 2.600 tỷ đồng; tuy nhiên, tính trung bình trong năm 2022, dòng tiền đầu tư đến thị trường đã đạt mức gần 4.700 tỷ đồng mỗi ngày. Điều này cho thấy thị trường hàng hoá nguyên liệu thế giới đã khẳng định vị thế và trở thành một trong những thị trường đầu tư không thể thiếu đối với nhà đầu tư Việt Nam; ngay trong bối cảnh hàng loạt các biến số kinh tế và địa chính trị liên tục tác động mạnh mẽ đến xu hướng giá. Dầu thô tăng tuần thứ ba liên tiếp Thị trường dầu thô kết thúc tuần giao dịch cuối cùng của năm 2022 trong sắc xanh. Giá dầu thô WTI tăng 0,88% lên 80,26 USD/thùng, và giá dầu thô Brent tăng 1,67% lên mức 85,91 USD/thùng.   Năm 2022 là một giai đoạn đáng nhớ của thị trường dầu thô với điểm nhấn là cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine nổ ra, khiến tình trạng mất cân bằng cung -  cầu trở thành chất xúc tác chính cho thị trường trong phần lớn thời gian của năm. Giá dầu thô WTI có mức tăng theo năm là gần 6% còn giá dầu thô Brent cao hơn so với một năm trước gần 9%.   Xét riêng trong tuần giao dịch trước, mức độ rủi ro của thị trường dầu gia tăng bởi thanh khoản giảm mạnh khi các nước phương Tây bước vào kỳ nghỉ năm mới. Giá tăng trong phiên đầu tuần do lo ngại về đợt bão tuyết kỷ lục gây đóng băng và làm gián đoạn các hoạt động sản xuất nhiên liệu.  Tuy nhiên, sau đó diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 một lần nữa gây sức ép và làm cho giá dầu không còn giữ được đà tăng. Nguy cơ lây nhiễm khi Trung Quốc mở cửa đã khiến nhiều quốc gia thận trọng và áp đặt nhiều hạn chế đi lại với người Trung Quốc.   Cuối tuần trước, Trung Quốc cũng công bố chỉ số Quản lý Thu mua (PMI) sản xuất và phi sản xuất đều giảm tháng thứ 4 liên tiếp. Tin tức này cho thấy sự suy yếu nghiêm trọng của nền kinh tế thứ hai toàn cầu, và có thể khiến nhu cầu tiêu thụ dầu khó phục hồi mạnh như kỳ vọng, ngay cả khi nền kinh tế mở cửa từ ngày 8/1 sắp tới.  Một yếu tố khác cũng làm gia tăng sức bán trên thị trường dầu là việc báo cáo của Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA)cho thấy tồn kho dầu thô thương mại tăng 0.7 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 16/2. Giá dầu thô Brent được hỗ trợ nhiều hơn so với giá dầu thô WTI trong bối cảnh, Nga sẽ ngừng cung cấp dầu mỏ và các sản phẩm lọc dầu cho các quốc gia tham gia áp dụng mức giá trần.   Trong phiên giao dịch cuối tuần, giá cả hai mặt hàng dầu thô đều hồi phục khi các nhà đầu tư bớt lo ngại và phản ứng tích cực hơn với thông tin tiêu thụ từ báo cáo của EIA. Tổng các sản phẩm nhiên liệu được cung cấp cũng tăng lên 2,8 triệu thùng, cao hơn mức trung bình 4 tuần.   Về phía nguồn cung của Mỹ, số lượng giàn khoan dầu khí trong tuần vừa qua giữ nguyên ở mức 779 giàn, và vẫn chưa phục hồi về mức trước đại dịch. Mức tăng nhỏ giọt phản ánh sự khó khăn nhất định trong năng lực gia tăng nguồn cung của Mỹ.   Lo ngại thiếu hụt nguồn cung trong năm 2023 thúc đẩy giá dầu cọ thô tăng mạnh Kết thúc tuần giao dịch 26/12 – 31/12, sắc đỏ hoàn toàn áp đảo trên bảng giá các mặt hàng nhóm nguyên liệu công nghiệp. Nổi bật là đà tăng mạnh gần 9% của dầu cọ thô.   Trái với xu hướng giá giảm của hầu hết các mặt hàng trong nhóm, dầu cọ trong tuần qua có sự bật tăng mạnh với 342 MYR, đưa giá về trên 4.100 MYR. Trung Quốc tiếp tục nới lỏng các biện pháp phòng chống sự lây lan của Covid-19, giúp thị trường kỳ vọng nhu cầu tiêu thụ dầu thực vật nói chung và dầu cọ nói riêng sẽ tích cực hơn trong thời gian tới, từ đó hỗ trợ giá. Bên cạnh đó, thông tin Indonesia, quốc gia xuất khẩu dầu cọ số 1 thế giới sẽ hạn chế lượng dầu cọ mà các công ty có thể xuất khẩu xuống còn 6 lần khối lượng đã bán trong nước, thay vì 8 lần như hiện tại cũng góp phần khiến giá mặt hàng này tăng mạnh trong tuần qua.   Ở chiều ngược lại, cả 2 mặt hàng cà phê đều ghi nhận sự suy yếu. Tỷ giá USD/Brazil Real tăng hơn 2% đã thúc đẩy việc bán hàng của nông dân Brazil, góp phần khiến lực mua gia tăng và gây áp lực lên giá. Tuy nhiên, những lo ngại về nguồn cung cà phê trong niên vụ tới tại Brazil khi mưa lớn cục bộ xuất hiện tại Minas Gerais đã hạn chế đà giảm, đóng cửa giá Arabica giảm gần 3%.   Robusta ghi nhận mức giảm mạnh hơn với 4,05% trong tuần qua do lực bán giá tăng. Hai mặt hàng đường cũng có tuần giảm mạnh với mức giảm quanh mốc 4% do nguồn cung tích cực tại Brazil. Theo dữ liệu được công bố bởi Ban Thư ký Ngoại thương (SECEX), tổng lượng đường xuất khẩu tính đến tuần thứ 4 của tháng 12 đạt gần 2 triệu tấn, vượt tổng lượng đường xuất khẩu trong tháng 12/2021. Cùng với đó, Cơ quan Cung ứng mùa vụ Brazil (CONAB) dự đoán sản lượng mía đường trong niên vụ 2022/23 của Brazil đạt 598,3 triệu tấn, kéo theo tổng lượng đường dự kiến đạt 36,4 triệu tấn, tăng 4,1% so với niên vụ 2021/22, đồng thời cao hơn mức dự đoán 33,89 triệu trong báo cáo trước đó của cơ quan này. Điều này đã góp phần đẩy giá giảm sâu.   Những lo ngại về nhu cầu tiêu thụ sẽ suy yếu do lo ngại suy thoái kinh tế cùng như tình trạng Covid diễn biến phức tạp tại Trung Quốc tiếp tục gây sức ép khiến giá bông giảm hơn 2% trong tuần qua. Theo đó, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự đoán lượng bông nhập khẩu trong niên vụ 2022/23 của Trung Quốc sẽ giảm xuống mức 1,4 triệu tấn so với mức 1,7 triệu tấn trong báo cáo cung – cầu đầu tháng 12.   Xuất khẩu cà phê nước ta tăng mạnh mẽ trong năm 2022 Trên thị trường nội địa, theo thống kê, nông dân Việt Nam đã thu hoạch được khoảng 85% diện tích niên vụ hiện tại, kết hợp với nhu cầu đẩy hàng tăng mạnh trước dịp Tết Nguyên Đán đã thúc đẩy lực bán gia tăng trên thị trường và gây sức ép lên giá. Bên cạnh đó, ước tính số liệu xuất khẩu trong năm 2022 của Việt Nam đạt 1,72 triệu tấn, tăng mạnh so với năm trước cũng góp phần tạo áp lực khiến giá đi xuống trong tuần qua.   Ghi nhận trong ngày cuối cùng của năm 2022, giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên và các tỉnh Nam Bộ dao động trong khoảng 38.600 – 39.300 đồng/kg, giảm tương đối mạnh 500 đồng/kg so với ngày trước đó. Nguồn: Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV)
Xem thêm

Thị trường hàng hoá khép lại tuần cuối năm 2022 với sắc xanh áp đảo

Ngô Minh Ngọc   |  02/01/2023

Kết thúc tuần giao dịch cuối cùng của năm 2022, các mặt hàng giao dịch liên thông quốc tế tại Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV) ghi nhận diễn biến tương đối trái chiều. Tuy nhiên, lực mua chiếm ưu thế đã giúp cho chỉ số MXV-Index tiếp nối đà tăng sang tuần thứ 3 liên tiếp, với mức tăng 0,51% lên 2.445,58 điểm, khép lại một năm với hàng loạt biến số kinh tế và địa chính trị tác động mạnh tới giá nhiều mặt hàng quan trọng. Nông sản là nhóm dắt dẫn xu hướng tăng chính trong tuần qua, với 5 trong tổng số 7 nguyên liệu đóng cửa trong sắc xanh. Một số lo ngại về nguồn cung, trong khi kỳ vọng tiêu thụ tích cực hơn, đặc biệt là trên thị trường Trung Quốc đã hỗ trợ đáng kể cho giá các mặt hàng trong nhóm. Ở một diễn biến khác, trên thị trường kim loại, ngoại trừ nhôm LME thì toàn bộ các mặt hàng còn lại đều ghi nhận mức tăng tương đối tích cực. Trong những ngày giao dịch cuối năm, tâm lý thận trọng của các nhà đầu tư khiến thanh khoản của thị trường khá mỏng, giá trị giao dịch toàn Sở trung bình đạt mức gần 2.500 tỷ đồng mỗi phiên. Nhóm đậu tương diễn biến trái chiều Dẫn đầu đà tăng trên thị trường nông sản trong tuần qua là khô đậu tương với mức tăng mạnh 4,3% lên 519,18 USD/tấn, theo sau là đậu tương cũng bật tăng đến 2,66%. Kỳ vọng về nhu cầu cải thiện cùng với việc mùa vụ ở Nam Mỹ đang bị ảnh hưởng bởi thời tiết bất lợi là nguyên nhân chính dẫn tới lực mua chiếm ưu thế hơn đối với thị trường đậu tương trong tuần qua. Theo báo cáo Giao hàng xuất khẩu, bán hàng đậu tương trong tuần vừa rồi của Mỹ vẫn duy trì ổn định ở mức 705.813 tấn. Con số này cũng nằm trong khoảng dự đoán và nhìn chung không phải là yếu tố tác động quá rõ ràng lên giá. Tuy nhiên, đây sẽ là số liệu quan trọng và là mốc so sánh cho những tuần tiếp theo. Với bối cảnh Trung Quốc nới lỏng kiểm soát dịch Covid thì niềm tin của thị trường về nền kinh tế hay ngành chăn nuôi của nước này hồi phục trở lại cũng là dấu hiệu tích  cực cho thấy triển vọng nhu cầu cải thiện. Trái lại, dầu đậu tương đóng cửa trong sắc đỏ với mức giảm 0,9% xuống 1.412 USD/tấn. Ủy ban Dầu cọ Malaysia (MPOB) cho biết giá dầu cọ thô dự kiến sẽ ổn định quanh mức 3.800 MYR/tấn trong năm 2023. Dự báo trên được đưa ra sau khi MPOB cho rằng thời tiết sẽ có sự cải thiện trong năm tới giúp sản lượng dầu cọ của Malaysia cao hơn, cùng với đó là nguồn cung các loại dầu thực vật khác sẽ cao hơn. Thông tin này đã tạo áp lực lớn lên giá mặt hàng này. Lúa mì cũng là mặt hàng đón nhận lực mua tích cực trong tuần trước một vài lo ngại về vụ mùa tại Argentina có thể khiến nguồn cung thu hẹp và hỗ trợ cho giá. Theo Sở Giao dịch Ngũ cốc Buenos Aires (BAGE), sản lượng lúa mì niên vụ 2022/23 của Argentina có thể bị cắt giảm trở lại trong những tuần tới do năng suất thấp hơn dự kiến. Sương giá muộn và hạn hán lịch sử đã khiến BAGE cắt giảm dự báo sản lượng lúa mì của Argentina xuống còn 12,4 triệu tấn, từ mức 20,5 triệu tấn đầu niên vụ Gần như toàn bộ nhóm kim loại đón nhận lực mua tích cực Đối với nhóm kim loại, ngoại trừ đà suy yếu của nhôm LME thì tất cả các mặt hàng còn lại đều đóng cửa trong sắc xanh trong tuần qua. Nhóm kim loại quý chứng kiến mức tăng 1,47% lên 1824,40 USD/ounce của giá vàng. Chung xu hướng, giá bạc và bạch kim lần lượt kết thúc tuần với mức tăng 0,5% lên 24 USD/ounce và 4,28% lên 1073,7 USD/ounce. Sự suy yếu của thị trường chứng khoán cùng với đồng USD đã mang lại nhiều sự hỗ trợ cho các mặt hàng kim loại quý. Vàng vốn là kim loại có vai trò trú ẩn tốt nhất nên giá vẫn duy trì ổn định trên 1.800 USD. Trong khi đó, thị trường bạch kim đang ở trong giai đoạn thăng hoa, và kết thúc mức tăng theo quý lớn nhất kể từ năm 2008. Theo Hội đồng Đầu tư Bạch kim Thế giới dự báo, thị trường bạch kim sẽ thâm hụt vào năm 2023 khi nhu cầu tăng 19% còn nguồn cung chỉ tăng 2%. Bất chấp những rủi ro về suy thoái, nhu cầu công nghiệp đối với bạch kim sẽ tăng 10% so với năm 2022, vượt mức trung bình 10 năm, và điều này đã hỗ trợ mạnh cho giá. Đối với nhóm kim loại cơ bản, quặng sắt dẫn đầu đà tăng với mức tăng gần 6% lên mức 117,5 USD/tấn, trong khi giá đồng trải qua một tuần biến động khá khó đoán, kết thúc với mức tăng rất nhỏ, chỉ 0,04% lên 3,81 USD/pound. Các tin tức liên quan tới Trung Quốc đều có ảnh hưởng tới cả hai mặt hàng kim loại này, tuy nhiên thị trường đang kỳ vọng vào sự phục hồi nhanh chóng hơn ở thị trường quặng sắt, đã giúp cho giá mặt hàng này tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 8, đánh dấu mức tăng 50% so với mức đáy 78 USD vào tháng 11. Cuối tuần, Trung Quốc công bố chỉ số Quản lý Thu mua (PMI) tháng 12, với chỉ số PMI sản xuất tiếp tục giảm tháng thứ 4 liên tiếp về 47 điểm, mức thấp nhất kể từ tháng 2/2020. Điều này phản ánh sự suy yếu nghiêm trọng của nền kinh tế thứ hai toàn cầu, bất chấp các biện pháp nới lỏng hạn chế chống dịch. Đây là tin tức rất tiêu cực và có thể khiến cho giá của các mặt hàng kim loại cơ bản đồng loạt giảm trong phiên giao dịch đầu tiên của năm 2023 sắp tới. Thị trường hàng hoá sẽ dần sôi động hơn sau kỳ nghỉ Lễ năm mới Theo MXV, thị trường hàng hoá trong giai đoạn sắp tới nhiều khả năng sẽ thiết lập các xu hướng mới rõ ràng hơn khi bước vào giai đoạn đầu tư mới. Dòng tiền đầu tư có sự cải thiện rõ rệt sẽ làm tăng tính thanh khoản cho thị trường. Trong tuần này, tâm điểm của nhiều mặt hàng nhiều khả năng vẫn tập trung vào những động thái mới nhất của Trung Quốc trong việc mở cửa trở lại, với kỳ vọng điều này có thể giúp cho bức tranh tiêu thụ khởi sắc và hỗ trợ cho giá nhiều nguyên liệu, đặc biệt là trong nhóm năng lượng hay kim loại. Tuy nhiên, trước khi đỉnh dịch Covid-19 tại quốc gia này qua đi, đà phục hồi vẫn sẽ tương đối chậm. Ngoài ra, thị trường cũng sẽ đón chờ các tín hiệu vĩ mô, đặc biệt là dữ liệu bảng lương phi nông tháng 12 tại Mỹ nhằm đánh giá bức tranh lao động tại quốc gia này. Trong trường hợp tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, hay số người có việc ngoài ngành nông nghiệp ít hơn dự báo có thể sẽ là tín hiệu khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất chậm lại, và nhiều mặt hàng sẽ duy trì tín hiệu tích cực. Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV)
Xem thêm

Triển vọng cung – cầu thay đổi, giá cà phê sẽ diễn biến ra sao trong những tháng đầu năm 2023

Ngô Minh Ngọc   |  31/12/2022

  Trong 1 tháng trở lại đây, giá cà phê trên cả 2 Sở ICE đều ghi nhận sự đảo chiều sau những thay đổi về triển vọng cung – cầu. Trong năm 2023 tới, với những diễn biến phức tạp về tình hình kinh tế - chính trị trên toàn cầu và tác động từ những thay đổi trong cung – cầu, giá cà phê sẽ nối tiếp đà khởi sắc hiện tại hay trở lại đà giảm trước đó? Giá đảo chiều sau những thay đổi về nguồn cung tại các nước cung ứng chính Sau đà giảm mạnh từ đầu tháng 10, giá 2 mặt hàng cà phê đồng loạt khởi sắc trong 1 tháng trở lại đây. Với Robusta, giá tăng liên tục trong vòng hơn 1 tháng kể từ khi chạm mức thấp nhất trong vòng hơn 1 năm vào hồi giữa tháng 11 vừa qua. Nguồn cung thay đổi kết hợp với biến động tỷ giá khiến quốc gia xuất khẩu Robusta lớn nhất thế giới hạn chế việc đẩy nguồn cung ra thị trường. Theo đó, sản lượng cà phê trong vụ thu hoạch hiện tại của Việt Nam được các chuyên gia dự đoán sẽ giảm 10-15% so mùa vụ trước. Nguyên nhân cho sự suy yếu này đến từ những cơn mưa kéo dài trong thời gian thu hoạch chính, khiến tiến độ bị trì hoãn và hoạt động phơi sấy không diễn ra đúng kế hoạch. Thêm vào đó, tỷ giá USD/VND bất ngờ giảm mạnh từ cuối tháng 11 theo đà giảm của Dollar Index, khiến nhu cầu đẩy hàng ra thị trường của nông dân và các nhà xuất khẩu Việt Nam giảm mạnh do thu về ít nội tệ hơn so với thời điểm trước đó. Về phía Arabica, mặt hàng này cũng có sự điều chỉnh so với giai đoạn giảm mạnh vào cuối tháng 10. Tuy nhiên, đà tăng của Arabica còn nhiều biến động do những tác động trái chiều từ yếu tố cung – cầu. Theo đó, giá Arabica chủ yếu được thúc đẩy từ việc triển vọng về nguồn cung trong năm 2023 tại Brazil, quốc gia xuất khẩu Arabica lớn nhất thế giới đã bớt tích cực hơn so với giai đoạn đầu mùa vụ. Bắt đầu với dự đoán sản lượng rơi vào mức 68,8 triệu bao của ngân hàng Rabobank và giảm dần về mức 50-56 triệu bao của hãng tư vấn Hedgepoint do tác động từ những cơn mưa đá vào cuối tháng 09 tại Minas Gerais. Tuy vậy, việc Cục Dự trữ Liên Bang (FED) khẳng định vẫn tiếp tục đà tăng lãi suất trong thời gian tới, khiến lo ngại về suy thoái kinh tế giá tăng, thúc đẩy xu hướng chuyển dịch từ tiêu dùng Arabica sang Robusta do giá thành rẻ hơn. Điều này đã kéo nhu cầu đối với mặt hàng trên suy yếu, khiến xu hướng chung của giá là tăng nhưng vẫn còn nhiều biến động. Yếu tố cung – cầu tiếp tục chuyển dịch theo hướng hỗ trợ giá cà phê Mùa vụ cà phê hiện tại của Brazil đang trong giai đoạn sinh trưởng và phải đến tháng 07/2023 mới chính thức bước vào thời kỳ thu hoạch. Do vậy những dự đoán về nguồn cung trong năm tới của Brazil vẫn còn nhiều bất cập, sản lượng và chất lượng thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thời tiết trong thời gian tới. Tuy vậy, 2023 là năm mất mùa trong chu kỳ 2 năm được mùa một lần của cây cà phê tại Brazil, cùng với những tác động từ sự kiện thời tiết tiêu cực như sương giá trong năm 2021 và mưa đá hồi tháng 09 năm nay, sản lượng cà phê tại Brazil khó có thể tích cực như những gì giới phân tích nhận định ban đầu. Trái với những dự đoán về nguồn cung suy giảm trong năm tới, thị trường có cái nhìn tích cực hơn về nhu cầu tiêu thụ trên toàn cầu trong năm 2023, bất chấp những lo ngại về suy thoái kinh tế. Theo đó, các chuyên gia cho rằng suy thoái kinh tế có thể khiến người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu cho loại hàng hóa không thiếu yếu như cà phê nhưng không đồng nghĩa với việc họ sẽ loại bỏ hoàn toàn mặt hàng này ra khỏi giỏ hàng tiêu dùng. Thay vào đó, người tiêu dùng có xu hướng chuyển dịch từ việc sử dụng cà phê có giá thành cao như Arabica sang loại cà phê có giá thành phải chăng hơn như Robusta. Điều này vừa giúp họ có thể tiếp tục sử dụng cà phê vừa giảm bớt gánh nặng chi tiêu.  Trong báo cáo mới nhất về cà phê, Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) vẫn giữ nguyên dự đoán tiêu thụ toàn cầu ở mức 170,3 triệu bao, tăng 3,3 triệu bao so với niên vụ 2020/21. Đồng thời tổ chức này cũng kỳ vọng cung – cầu cà phê trên toàn cầu sẽ thâm hụt 3,1 triệu bao. Bên cạnh đó, việc Trung Quốc nới lỏng chính sách Zero Covid cũng đưa đến những triển vọng tích cực hơn về nhu cầu tiêu thụ của quốc gia tỷ dân, phần nào bù đắp sự suy yếu do lo ngại suy thoái tại những thị trường tiêu thụ hàng đầu như EU và Mỹ. Như vậy, sự chuyển dịch của yếu tố cung – cầu đang dần bổ trợ cho xu hướng giá khởi sắc của cà phê. Đà tăng được nối tiếp trong những tháng đầu năm 2023 khi nguồn cung tiếp tục kém khả quan Sau năm 2022 với thương mại đạt mức kỷ lục khi lượng xuất khẩu đạt khoảng 1,7 triệu bao với tổng kim ngạch hiện tại gần 4 tỷ USD, lượng tồn kho cà phê của Việt Nam được nhận định đang ở mức thấp. Do vậy, các chuyên gia dự đoán 2023 sẽ là năm xuất khẩu khó khăn của Việt Nam. Một mặt do sản lượng cà phê thu hoạch trong vụ hiện tại sẽ bù vào các kho dự trữ. Mặt khác, sản lượng suy yếu cũng làm giảm lượng xuất khẩu của Việt Nam. Hơn nữa, trong nửa đầu năm 2023, Việt Nam tiếp tục là quốc gia độc chiếm thị trường Robusta khi các quốc gia cung ứng chính khác như Brazil và Indonesia chưa bước vào vụ thu hoạch. Việc nguồn cung giảm và nhu cầu đẩy hàng chậm của nông dân Việt Nam sẽ tiếp tục là nhân tố kéo giá Robusta tăng trong thời gian tới. Dưới những tác động trái chiều giữa yếu tố cung – cầu với thiên hướng lo ngại nguồn cung suy yếu, giá Arabica khả năng cao sẽ nối tiếp xu hướng giá “trung tính – tăng” trong khoảng thời gian đầu năm 2023. Cụ thể, việc nguồn cung toàn cầu có thể ở mức thấp do hiệu ứng năm mất mùa tại Brazil và việc mưa nhiều làm giảm sản lượng tại Colombia, kết hợp với những lo ngại nhu cầu suy yếu do người tiêu dùng cắt giảm và chuyển hướng tiêu dùng cũng sẽ gây ra nhiều diễn biến giằng co đối với giá mặt hàng này. Như vậy, với những chuyển đổi của yếu cung – cầu, giá 2 mặt hàng cà phê khả năng cao sẽ nối tiếp xu hướng giá khởi sắc, ít nhất là trong 03 tháng đầu năm 2023.  Nguồn: Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV)
Xem thêm
Chat hỗ trợ
Chat ngay
facebook